Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Tô Thức
bén tục 变俗
đgt. dính tục. Tô Thức có câu: “có thể ăn không thịt, chẳng thể ở không trúc. Không thịt làm người gầy, không trúc khiến người tục. Người gầy có thể béo. Người tục không chữa được.” (寧可食無肉, 不可居無竹。無肉令人瘦, 無竹令人俗。人瘦尚可肥, 俗士不可医 ninh khả thực vô nhục, bất khả cư vô trúc. Vô nhục lệnh nhân sấu, vô trúc lệnh nhân tục. Nhân sấu thượng khả phì, tục sĩ bất khả y). Huống lại dưng dưng chăng bén tục, trượng phu tiết cứng khác người vay. (trúc 222.3).
Cô Dịch 姑射
dt. tên núi tại huyện Lân Phân tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Sách Trang Tử thiên Tiêu diêu du có đoạn: “thấy núi Cô Dịch có thần nhân ở đó, da như băng tuyết, yểu điệu như gái chưa chồng, không ăn ngũ cốc, hớp gió uống sương. Cưỡi khí mây, ngồi rồng lượn mà chơi ngoài bốn bể. Khi thần khí tụ lại khiến muôn vật không bị bệnh tật mà mùa màng bội thu.” (藐姑射之山,有神人居焉,肌膚若冰雪,淖約若處子,不食五穀,吸風飲露。乘雲氣,御飛龍,而遊乎四海之外。其神凝,使物不疵癘而年穀熟). Thơ văn đời sau thường lấy Cô Dịch làm biểu tượng cho người đẹp có phẩm cách cao khiết hay trỏ chung cho thần tiên. Vương Chu đời Ngũ Đại trong bài Đại thạch linh dịch mai hoa có câu: “Cõi tiên Cô Dịch đón Dao Cơ, hoá trận thanh hương ấp ngả mờ.” (仙中姑射接瑤姬,成陣清香擁路岐 tiên trung Cô Dịch tiếp Dao Cơ, thành trận thanh hương dụng lộ kỳ). Tô Thức có câu: “Bên bờ biển gặp nàng Cô Dịch, khẽ nghiêng chào miệng chúm chím hoa.” (海邊逢姑射,一笑微俯首). Cách song mai tỉnh hồn Cô Dịch, kề nước cầm đưa tiếng cửu cao. (Mạn thuật 35.3)‖ (Mai 214.3)‖ (Lão mai 215.3).
cổi 解
◎ Nôm: 檜 Đọc theo âm HHV [PJ Duong 2013: 158]. AHV: giải. “Cổi: lột ra. Cổi áo ra. Cổi dêi ra” [Rhodes 1651 tb1994: 65]. Sau này đọc thành cởi. Chữ “giải” trong tiếng Hán trỏ việc dùng dao (刀) bổ đôi sừng trâu (牛角), sau mới cho nghĩa phái sinh là “cởi bỏ” (untie). Ss đối ứng kot (7 thổ ngữ Mường), kɤj (6 thổ ngữ) [NV Tài 2005: 201].
đgt. <từ cổ> tháo nút buộc, đọc theo âm THV. Nghìn dặm xem mây nhớ quê, chẳng chờ cổi ấn gượng xin về. (Bảo kính 155.2)‖ Xin về xưa cổi ấn Ngu Khanh. (Bảo kính 169.4)‖ dịch chữ giải ấn từ quan.
đgt. <từ cổ> dịch chữ giải sầu 解愁, giải phiền 解煩, giải ưu 解憂. Cuộc lần cờ thấp tan ngày diễn, bếp thắng chè thô cổi khuở âu. (Bảo kính 154.6), dịch câu kỳ cục tiêu trường hạ 棋局消長夏 (cuộc cờ tiêu ngày hè dài) của Tô Thức‖ Nào của cổi buồn trong khuở ấy, có thơ đầy túi, rượu đầy bình. (Tự thán 86.7).‖ Cổi lòng xuân làm sứ thông. (Thái cầu 253.2).
đgt. <từ cổ> cởi bỏ, dịch chữ giải tục 解俗. Cổi tục, chè thường pha nước tuyết, tìm thanh, khăn tịn nhặt chà mai. (Ngôn chí 2.3)‖ Cổi phàm tục. (Bảo kính 187.5). cởi. x. giải.
la phù 羅浮
dt. tên rượu, còn có tên gọi khác là la phù xuân 羅浮春. Tô Thức trong bài Ngụ cư hợp giang lâu có câu: “Ba núi tấc gang chăng về được, một chén la phù để cậy nương.” (三山咫尺不歸去,一杯付與羅浮春 tam san chỉ xích bất quy khứ, nhất bôi phó dữ la phù xuân), tự chú: “nhà ta nấu rượu, gọi là la phù xuân”, sau phiếm trỏ các loại rượu ngon. Chén chăng lọ chuốc rượu la phù, khách đến ngâm chơi, miễn có câu. (Trần tình 43.1).
rặng 嶺 / 岭
◎ Nôm: 𱣌 rặng là âm THVcủa lĩnh, vào quãng trước đời Hán, lưu tích còn trong rặng núi (dãy núi). Tô Thức trong bài Đề tây lâm bích có câu: “Trông ngang thành rặng núi, trông trắc diện thì thành một đỉnh núi, xa gần cao thấp chẳng như nhau.” (横看成嶺側成峰,遠近高低各不同 hoành khan thành lĩnh trắc thành phong, viễn cận cao đê các bất đồng). Kiểu tái lập: *reŋ. dặng. Đây là chữ Nôm ghi cách đọc từ cuối thế kỷ XVII về sau, khi d- r đã xoá nhãn.
dt. HVVD <từ cổ> dãy, hàng. Nô bộc ắt còn hai rặng quýt, thất gia chẳng quản một con lều. (Mạn thuật 24.5).
thấp 𥰊 / 㙮
◎ Ss đối ứng păn³, băn³ (13 thổ ngữ Mường), dip⁵ (6), tʼɤp (6) [NV Tài 2005: 275].
tt. trái với cao. Am cao am thấp đặt đòi tầng, khấp khểnh ba làn, trở lại bằng (Ngôn chí 16.1)‖ (Mạn thuật 26.3)‖ (Tức sự 126.7)‖ (Bảo kính 132.8, 146.2)‖ Cuộc lần cờ thấp tan ngày diễn, bếp thắng chè thô cổi khuở âu. (Bảo kính 154.5), dịch câu: kỳ cục tiêu trường hạ 棋局消長夏 (cuộc cờ tiêu ngày hè dài) của Tô Thức trong bài Tư Mã quân thực độc lạc viên.
Thấu Ngọc 潄玉
dt. tên ngôi đình đẹp nổi tiếng ở Lô Sơn, do vị tăng đời Tống là Nhược Ngu 若愚 dựng. Ngô Tùng 吴崧 trong bài Du ký giải thích rằng: “đình gần khe nước, nơi hai thác đổ xuống, thành một đầm lớn. Thác đổ xuống ghềnh đá, trong veo như ngọc, cho nên gọi Thấu Ngọc là cực hợp” (亭臨涧,二瀑奔赴,汇為潭。下注激石,滢然如玉,漱玉名最稱). Tô Thức (1037 - 1101) khi thưởng ngoạn cảnh đẹp ở đây từng viết bài Thanh ngọc giáp Thấu Ngọc đình trong đó có câu: “bọt toé như sương tuyết, đầm cũ lay trời xanh. Trôi đi trôi lặng lặng, rồi rót ra động ngọc.” (亂沫散霜雪,古潭摇清空。餘流滑無聲,快瀉出玉谾 loạn mạt tán sương tuyết, cổ đàm dao thanh không. Dư lưu hoạt vô thanh, khoái tả xuất ngọc hông). Phan Huy Chú lại ghi: “Côn Sơn ở xã Chi Ngại, trước thuộc về huyện Phượng Nhãn, trấn Kinh Bắc, hình như con kỳ lân. Trên núi có động thanh hư, dưới núi có cầu Thấu Ngọc, cây và đá xanh um thật là cảnh đẹp ở nhân gian. Về triều Trần, sư Pháp Loa làm nhà tu ở đấy; sư Huyền Quang cũng thường tu ở núi này. Đến cuối Trần, Băng Hồ về hưu, khi uống rượu, khi ngâm thơ ung dung thích ý…” [1960: 105]. Đình Thấu Ngọc tiên sanh tuyết nhũ, song mai hoa điểm quyển Hy Kinh. (Tự thán 107.3).
tiêu trưởng 消長
đgt. tt. <Đạo> tăng giảm, thịnh suy, tiêu mất và phương trưởng trỏ hai sự đối lập. Tô Thức trong tiền xích bích phú có đoạn: “Khách cũng chẳng biết nước với trăng ư? trôi đi như nước kia chưa từng dừng lại; đầy vơi như trăng đó, có mất đi đâu.” (客亦知夫水與月乎?逝者如斯,而未嘗往也;盈虚者如彼,而卒莫消長也). Tự nhiên đắp đổi đạo trời, tiêu trưởng doanh hư một phút dời. (Tự thán 104.2). x. doanh hư.
tửu binh 酒兵
dt. rượu. Tô Thức có câu: “Các ngài văn luật trùm tây kinh, lại dựng thi đàn dựa tửu binh.” (君家文律冠西京,旋筑詩壇按酒兵 quân gia văn luật quán tây kinh, toàn trúc thi đàn án tửu binh). Tào Dần trong bài Bắc hành tạp thi viết: “quanh mâm khách giang hồ, theo ai mượn tửu binh?” (满坐滄浪客,從誰借酒兵?mãn toạ Thương Lang khách, tòng thuỳ tá tửu binh?). Miệng khiến tửu binh pha luỹ khúc, mình làm thi tướng đánh đàn tao. (Tự thán 89.3).
đồi 堆
◎ Nôm: 頽 AHV: đôi. Ss đối ứng tol, dol (15 thổ ngữ Mường) [NV Tài 2005: 216]. Đây là từ hán Việt-Mường. Ss đối ứng đoi trong tiếng thái như đoi inthanon, đoi suthep, đoi khuntan, đoi chiêng dao, đoi tung, thành ngữ chao khao chao đoi (người núi người đồi) [An Chi 2006 t5: 320- 321].
dt. HVVD đống, trong đồi núi. nguyên nghĩa trong tiếng Hán là một động từ với nghĩa “bồi, đắp” hoặc là cái đụn cát được bồi đắp ở giữa sông hoặc ven sông, “堆沙堆” (quách phác) [Hán Ngữ Đại Tự Điển 1995: 454], nghĩa này còn đối ứng trong tiếng Việt là doi (doi gốc Hán, cồn gốc Việt), rồi chuyển thành lượng từ, như câu: “dồn nên nghìn đống đất” (卷起千堆雪) [Tô Thức - niệm nô kiều]. Tiếng Việt xưa nay không phân biệt đồi, núi, đống, gò. Ví dụ: đống đa (núi đất có nhiều cây đa) còn được gọi là loa sơn, nay gọi là gò đống đa. Xét, đồi (堆) - (丘) - đụn (墩) - sơn (山) là gốc Hán; núi - đống - ngàn - non là gốc Việt. Cày chống tuyết ngâm đòi cảnh, cuốc chơi xuân khắp mọi đồi. (Ngôn chí 13.6).